TP HCM định hình mạng lưới khu thương mại tự do từ hạt nhân Cái Mép Hạ

TP HCM sẽ hình thành một khu thương mại tự do lấy Cái Mép Hạ làm hạt nhân, đồng thời mở rộng sang các phân khu tại Cần Giờ, An Bình và Bàu Bàng, vận hành theo cơ chế thống nhất nhằm khai thác lợi thế cảng biển, logistics và kết nối vùng.
khu-thuong-mai-tu-do-1766843629.pngTP HCM mở hướng phát triển khu thương mại tự do gắn với hệ thống cảng và logistics.

TP HCM đang từng bước hiện thực hóa tham vọng xây dựng một khu thương mại tự do theo mô hình tập trung nhưng linh hoạt, với một khu lõi và nhiều phân khu chức năng trải rộng ở những địa bàn có lợi thế đặc thù. Cách tiếp cận này không chỉ tận dụng tối đa tiềm năng cảng biển, logistics và giao thông liên vùng, mà còn bảo đảm thống nhất về cơ chế quản lý, tránh phân mảnh thể chế trong quá trình triển khai.

Chủ trương trên đã được HĐND TP HCM thông qua tại kỳ họp chuyên đề chiều 26/12, khi ban hành Nghị quyết quy định trình tự, thủ tục thành lập, mở rộng và điều chỉnh ranh giới Khu thương mại tự do TP HCM. Đây được xem là bước đi cụ thể nhằm triển khai Nghị quyết 260 của Quốc hội, văn bản sửa đổi, bổ sung Nghị quyết 98 về thí điểm cơ chế đặc thù, cho phép TP HCM áp dụng các chính sách vượt trội để thu hút đầu tư, phát triển thương mại, logistics và dịch vụ chất lượng cao.

Theo phương án được thông qua, thay vì hình thành nhiều khu thương mại tự do riêng lẻ, TP HCM sẽ tổ chức theo mô hình “một khu - nhiều phân khu”. Giai đoạn đầu, thành phố chỉ thành lập một khu thương mại tự do duy nhất tại khu vực Cái Mép Hạ, với quy mô khoảng 3.800 ha. Đây được xác định là khu lõi bắt buộc gắn với cảng biển nước sâu, nhằm phát huy tối đa vai trò của cụm cảng Cái Mép - Thị Vải trên các tuyến hàng hải quốc tế Á - Âu và Á - Mỹ.

Từ hạt nhân Cái Mép Hạ, khu thương mại tự do sẽ được mở rộng thông qua việc bổ sung các phân khu chức năng tại những địa bàn có lợi thế nổi trội về logistics, cảng biển và kết nối giao thông. Các khu vực như Cần Giờ, An Bình hay Bàu Bàng không được thành lập như những khu độc lập, mà trở thành các phân khu mở rộng thông qua điều chỉnh ranh giới khu đã có. Điểm đáng chú ý là việc mở rộng này không bị ràng buộc bởi yếu tố liền kề về mặt địa lý, miễn là các phân khu có khả năng kết nối hạ tầng kỹ thuật, logistics và cùng vận hành dưới một hệ thống quản lý thống nhất.

Trong số các phân khu được định hướng, An Bình và Bàu Bàng, thuộc địa bàn Bình Dương cũ, mỗi nơi có quy mô khoảng 100 ha, giữ vai trò vệ tinh logistics quan trọng. An Bình được quy hoạch gắn với hệ thống cảng cạn và các trung tâm logistics hiện hữu, nằm gần các tuyến giao thông huyết mạch và đầu mối vận tải liên vùng, thuận lợi cho trung chuyển hàng hóa bằng đường bộ và đường sắt. Trong khi đó, Bàu Bàng có lợi thế đặc biệt về kết nối đường sắt, gắn với tuyến TP HCM - Lộc Ninh, qua đó liên thông cụm cảng nước sâu với khu vực nội địa, Tây Nguyên, Campuchia và hành lang kinh tế xuyên Á.

Ở hướng biển, phân khu Cần Giờ được định vị với vai trò chiến lược hơn, gắn với dự án cảng trung chuyển quốc tế có quy mô dự kiến từ 1.000 đến 2.000 ha. Với vị trí cửa ngõ hàng hải, khu vực này được kỳ vọng trở thành trung tâm trung chuyển container và logistics quốc tế, bổ sung chức năng mà khu lõi Cái Mép Hạ khó đảm nhiệm do hạn chế về không gian phát triển cảng trung chuyển quy mô lớn.

Việc lựa chọn mô hình “một khu - nhiều phân khu” cũng xuất phát từ yêu cầu pháp lý và tính linh hoạt trong triển khai. Theo Nghị quyết 260, TP HCM chỉ được quyết định thành lập khu thương mại tự do gắn với Cái Mép Hạ. Do đó, để đưa các địa bàn khác vào cùng hệ thống, thành phố phải sử dụng cơ chế mở rộng, thay vì lập mới. Đáng chú ý, nghị quyết cho phép TP HCM mở rộng sang các phân khu khác ngay cả khi khu lõi chưa đạt tỷ lệ lấp đầy 70%, nếu việc này phục vụ mục tiêu quốc gia hoặc nhu cầu cấp bách về hội nhập và thu hút đầu tư chiến lược.

Về tổng thể, khu thương mại tự do TP HCM được thiết kế vận hành theo mô hình khu phi thuế quan, áp dụng cơ chế hải quan và quản lý đặc thù nhằm tạo thuận lợi tối đa cho thương mại quốc tế. Dù phân bố ở nhiều địa bàn khác nhau, các phân khu vẫn cùng chịu sự điều hành của một đầu mối và áp dụng chung một khung chính sách.

TP HCM kỳ vọng mô hình này sẽ tạo ra động lực tăng trưởng mới, phát huy lợi thế cảng biển, logistics và kết nối vùng, qua đó nâng cao vị thế của thành phố trong chuỗi cung ứng toàn cầu và củng cố vai trò đầu tàu kinh tế của vùng Đông Nam Bộ trong giai đoạn tới.