Chủ tịch Bảo Tín Mạnh Hải lý giải vì sao doanh nghiệp buộc sử dụng nguồn vàng "trôi nổi"

Theo Chủ tịch Bảo Tín Mạnh Hải, việc không thể tiếp cận vàng nhập khẩu theo cơ chế rõ ràng đã khiến các doanh nghiệp buộc phải sử dụng nguồn vàng “trôi nổi”, chấp nhận rủi ro để duy trì sản xuất và có hàng cung ứng ra thị trường.
hong-son-1763456913.jpgÔng Vũ Hùng Sơn, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Vàng bạc đá quý Bảo Tín Mạnh Hải. (Ảnh: TPO)

Thời gian qua, giá vàng trong nước liên tục biến động mạnh, chênh lệch với thế giới có lúc vượt 20 triệu đồng/lượng, cung - cầu mất cân đối, xuất hiện tình trạng người dân xếp hàng dài chờ mua vàng nhưng các thương hiệu lớn lại không có đủ nguồn hàng để bán…

Dù Chính phủ đã ban hành Nghị định 232/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định 24/2012/NĐ-CP nhằm từng bước hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động kinh doanh vàng, tạo hành lang rõ ràng hơn cho quản lý thị trường. Tuy nhiên, thực tế cho thấy các thay đổi về chính sách, dù cần thiết vẫn chưa giải quyết được triệt để những bất cập của thị trường vàng.

Khó tiếp cận vàng nhập khẩu khiến doanh nghiệp phải dùng vàng “trôi nổi”

Tại tọa đàm với chủ đề “Sàn giao dịch vàng: Minh bạch thị trường và ổn định kinh tế vĩ mô” do Báo Tiền Phong tổ chức sáng 18/11, ông Vũ Hùng Sơn, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Vàng bạc đá quý Bảo Tín Mạnh Hải đánh giá thị trường vàng Việt Nam đang trải qua giai đoạn nhiều biến động khi cả người dân lẫn doanh nghiệp đều đối mặt với những trở ngại chưa từng có.

Theo ông, nguồn cung hạn chế đã đẩy giá vàng trong nước lên cao, trong khi người dân lại khó hoặc không thể mua được. "Tình trạng xếp hàng mua vàng chỉ phản ánh phần nổi của khó khăn, còn phía sau là sự thiếu hụt kéo dài của nguồn cung nguyên liệu chính thức suốt hơn 13 tháng qua", ông nói và cho biết thêm việc không thể tiếp cận vàng nhập khẩu theo cơ chế rõ ràng đã khiến các doanh nghiệp buộc phải sử dụng nguồn vàng "trôi nổi", chấp nhận rủi ro để duy trì sản xuất và có hàng cung ứng ra thị trường.

Để duy trì hoạt động kinh doanh, ông Hải cho biết các doanh nghiệp phải nâng mạnh giá mua vào nhằm khuyến khích những người nắm giữ vàng trước đó bán ra.

“Trong bối cảnh lượng hàng về ít, việc giới hạn mỗi khách chỉ được mua một vài chỉ là giải pháp bất đắc dĩ để tránh tình trạng nhà đầu tư lớn gom hàng, khiến khách nhỏ lẻ không còn cơ hội tiếp cận. Cùng với đó, toàn bộ hệ thống cửa hàng phải đầu tư máy phổ hiện đại để kiểm tra chất lượng vàng, thay vì chỉ dựa vào kinh nghiệm thủ công như trước”, ông Hải cho hay.

Theo Chủ tịch Bảo Tín Mạnh Hải, thiếu hụt nguồn cung là nghịch lý đáng lo ngại đối với một ngành nghề có giá trị gia tăng rất cao như vàng. Đặc biệt, vàng trang sức - lĩnh vực mang đậm yếu tố văn hóa - hiện có khoảng 6.800 cơ sở được cấp phép hoạt động trên cả nước, tạo việc làm cho lực lượng lớn lao động, nhất là tại những doanh nghiệp lớn với 6.000 - 7.000 người nhưng ngành vẫn đang chịu sức ép ngày càng lớn từ khung pháp lý.

Đánh giá việc sửa đổi Nghị định 23/2014 là tín hiệu tích cực, mở ra cơ chế bổ sung nguồn cung hàng năm cho thị trường, Chủ tịch Bảo Tín Mạnh Hải kiến nghị đưa vàng trang sức ra khỏi danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện trong Luật Đầu tư. “Vàng trang sức là sản phẩm tiêu dùng, không ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng, và việc nới điều kiện sẽ tạo đà để Việt Nam trở thành trung tâm chế tác trang sức trong khu vực”, ông nói.

Liên quan đề xuất xây dựng sàn giao dịch vàng với việc chia lộ trình thực hiện làm 3 giai đoạn, trong đó giai đoạn đầu chỉ giao dịch vàng nguyên liệu nhập khẩu. Ông Hải cho biết, điều này khiến doanh nghiệp lo ngại là số hạn ngạch nhập khẩu dự kiến được phân cho các ngân hàng và các doanh nghiệp lớn, còn các doanh nghiệp sản xuất trang sức khác không có cơ hội tiếp cận nguồn vàng nhập khẩu thì sàn giao dịch sẽ khó tạo được sự sôi động và khó phát huy vai trò điều tiết thị trường.

diep-1763456913.jpg Bà Phan Thị Hồng Điệp, Chủ tịch VietinBank Gold & Jewellery. (Ảnh: TPO)

Bà Phan Thị Hồng Điệp, Chủ tịch VietinBank Gold & Jewellery cũng bày tỏ mong muốn Ngân hàng Nhà nước sẽ sớm cấp phép cho các đơn vị đủ điều kiện được nhập khẩu vàng nguyên liệu, để có thể hoạt động và cung cấp sản phẩm cho thị trường.

“Hiện nay vẫn chưa có một cơ chế rõ ràng về việc các đơn vị được phép nhập khẩu vàng nguyên liệu sẽ bán như thế nào và làm thế nào để kết nối với doanh nghiệp. Điều này gây ra nhiều khó khăn và bất ổn định cho thị trường”, bà Điệp nói và hy vọng sắp tới, các quyết định về cấp phép nhập khẩu và tổ chức thị trường sẽ được ban hành, để doanh nghiệp có nguồn hàng và thị trường hoạt động thông suốt.

Trong khi đó, ông Nguyễn Đức Lê, Phó Trưởng phòng Nghiệp vụ quản lý thị trường, Cục Quản lý và Phát triển thị trường trong nước, Bộ Công Thương cho rằng, đối với vàng chế tác, trang sức, vàng tiêu dùng… nguồn cung hiện nay vẫn đáp ứng tương đối đủ. Chỉ có nguồn cung về vàng miếng đôi khi có hạn chế về nhập khẩu nhất là thời gian gần đây khi có nhu cầu trong nước lớn, cung hạn chế, nhu cầu cao tạo nên nút thắt cổ chai đẩy giá vàng lên cao. Điều này xuất phát từ việc người Việt Nam có truyền thống mua tích sản, tiết kiệm, cưới xin thường tặng vàng nên nhu cầu rất cao, tạo nên cơn sốt tăng giá.

Có thể huy động vàng trong dân nhưng không thể vội vã

Tại tọa đàm, các chuyên gia cho rằng để giải bài toán nguồn cung cho thị trường vàng, bên cạnh việc tạo các cơ chế thuận lợi hơn cho việc nhập khẩu vàng nguyên liệu, cũng cần có các giải pháp để huy động vàng trong dân.

TS. Nguyễn Trí Hiếu, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Phát triển thị trường tài chính và bất động sản toàn cầu cho biết, hiện Việt Nam đang nắm giữ một lượng vàng rất lớn trong dân, ước tính hàng trăm tấn. Nhưng việc huy động lượng vàng này không thể thực hiện trong ngắn hạn mà cần một quá trình dài hơi, thận trọng và có niềm tin thị trường.

Theo ông trong gần một năm qua, giá vàng thế giới tăng khoảng 56%, trong khi vàng trong nước tăng tới 80%. Do đó, không khó hiểu khi người dân chuyển từ bất động sản, chứng khoán hay gửi tiết kiệm sang vàng, bởi bất động sản cần vốn lớn, chứng khoán đòi hỏi kiến thức và rủi ro, lãi suất gửi ngân hàng khó cạnh tranh với mức sinh lời của vàng thời gian qua. Vì vậy, nhu cầu tích lũy và đầu tư vàng của người dân là chính đáng.

“Vàng tại Việt Nam không chỉ là tài sản đầu cơ mà còn đóng vai trò tích lũy, bảo hiểm tài chính. Nhiều gia đình không có bảo hiểm xã hội hay bảo hiểm y tế, nên vàng trở thành ‘của để dành’, được sử dụng khi gặp biến cố. Tính thanh khoản cao, dễ mua bán, chia nhỏ, giữ kín khiến vàng trở thành lựa chọn quen thuộc và sâu gắn với tập tính tài chính của người dân Việt Nam”, TS. Nguyễn Trí Hiếu phân tích.

Tuy nhiên, ông cho rằng việc trữ vàng vật chất tại nhà là một sự lãng phí lớn đối với nền kinh tế. Ước tính lượng vàng cất giữ trong dân tương đương 8% GDP, nhưng không được đưa vào sản xuất - kinh doanh.

hieu-1763456795.jpgChuyên gia kinh tế Nguyễn Trí Hiếu. (Ảnh: TPO)

Về lâu dài, theo ông Hiếu, Việt Nam phải hướng tới mô hình chứng khoán hóa vàng, người dân nắm giữ tài sản vàng dưới dạng chứng chỉ có giá trị tương đương vàng vật chất. Nhưng để điều đó xảy ra, điều quan trọng nhất là “người dân phải tin rằng chứng chỉ đó an toàn tuyệt đối và có giá trị thực”.

Về câu hỏi liệu Việt Nam có thể huy động được 300-500 tấn vàng trong dân vào nền kinh tế không? Ông Hiếu cho rằng điều này “có thể” nhưng cần thời gian, không thể vội vã.

“Nếu chúng ta xây dựng được niềm tin thị trường, giảm độc quyền, mở rộng quyền tham gia của doanh nghiệp và ngân hàng, bảo đảm lưu thông vàng minh bạch, cung cấp các sản phẩm đầu tư vàng an toàn thì dòng vàng trong dân sẽ dần đi vào hệ thống một cách tự nhiên và tự nguyện”, ông nói.

Vị chuyên gia này cũng tin tưởng với Nghị định 232 và định hướng xây dựng hệ sinh thái sản phẩm vàng an toàn - minh bạch - cạnh tranh, Việt Nam có thể từng bước làm được ba việc: Bảo đảm phân phối vàng vật chất minh bạch; chống đầu cơ, buôn lậu; từng bước triển khai các sản phẩm vàng đầu tư theo chuẩn mực quốc tế, tiến tới chứng khoán hóa vàng, tạo nguồn lực vàng phục vụ nền kinh tế.