Doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam đã chủ động liên kết, hợp tác
Việt Nam với ưu thế có thể chế chính trị ổn định, lực lượng lao động dồi dào và lành nghề, nhiều lĩnh vực công nghiệp công nghệ cao như chip bán dẫn, hàng không, đường sắt cao tốc đang thu hút nhiều sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài. Các lĩnh vực này cũng tạo cơ hội lớn cho doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước bứt phá tham gia vào chuỗi cung ứng.
TS. Lê Huy Khôi, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược - Chính sách Công Thương nhấn mạnh vai trò động lực của ngành công nghiệp hỗ trợ đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế.
“Ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể, đặc biệt là trong việc cung cấp nguyên liệu và sản phẩm đầu vào cho các DN sản xuất trong nước. Đồng thời, một số sản phẩm công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đã bắt đầu xuất khẩu ra thế giới, đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng lĩnh vực công nghiệp quốc gia”, ông Khôi nói.
Vào trung tuần tháng 12/2024, Nhà máy sản xuất linh kiện hàng không KP Vina - sản xuất linh kiện cho dòng máy bay Boeing tại Khu công nghệ cao Đà Nẵng chính thức khánh thành đi vào hoạt động. Sự kiện cho thấy, Việt Nam hoàn toàn có khả năng trở thành trung tâm công nghệ cao, có môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp (DN) đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ tiên tiến và sản xuất linh kiện, đặc biệt trong ngành hàng không.
Hiện, nhiều DN công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam đã có những bước đi sẵn sàng cho việc hợp tác, tiếp cận, sản xuất trong ngành hàng không vũ trụ. Là 1 trong những DN ký kết hợp đồng tư vấn đầu tư sản xuất tham gia chuỗi sản xuất linh kiện hàng không vũ trụ toàn cầu, CEO Công ty An Mi Tools Nguyễn Hồng Phong cho biết, với Chứng nhận AS9100 sẽ giúp các DN công nghiệp hỗ trợ Việt Nam tiếp cận chuỗi sản xuất toàn cầu trong lĩnh vực hàng không vũ trụ.
“Các hãng hàng không trên thế giới rất quan tâm tới việc tìm kiếm đơn vị sản xuất tại Việt Nam, để chuyển chuỗi cung ứng đồng thời là cơ hội tốt và lớn với các DN công nghiệp hỗ trợ Việt Nam”, CEO Nguyễn Hồng Phong cho hay.
Ở lĩnh vực công nghệ bán dẫn, thời gian qua nhiều tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới như Qualcomm, Google, Meta, Lam Research, Qorvo, AlChip đã có kế hoạch cụ thể chuyển dịch chuỗi cung ứng sang Việt Nam. Việt Nam hiện có 174 dự án FDI trong lĩnh vực bán dẫn với tổng vốn đăng ký gần 11,6 tỷ USD.
Đại dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, một trong những dự án cơ sở hạ tầng trọng điểm của Việt Nam đang được kỳ vọng mang lại tác động lớn đến phát triển kinh tế và xã hội. Theo đánh giá từ ông Nguyễn Vân, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ TP Hà Nội (HANSIBA), dự án này sẽ mở ra cơ hội để các DN tiếp nhận, chuyển giao, làm chủ công nghệ và phát triển công nghiệp đường sắt. Đồng thời sẽ tạo bước đột phá cho phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam, nhất là các DN thuộc lĩnh vực cơ khí, chế tạo, tự động hóa, thép, sản xuất vật liệu, linh phụ kiện…
Tuy nhiên theo ông Nguyễn Vân, để cụ thể hoá được quá trình này, HANSIBA đang cùng các DN đề xuất Chính phủ, Bộ, ngành sau khi thành lập “Tổ công tác” của dự án, sẽ có những chương trình làm việc trực tiếp với các tổ chức Hội, Hiệp hội trong đó có Hiệp hội HANSIBA và các DN công nghiệp hỗ trợ. Qua đó sẽ nắm bắt về năng lực sản xuất, khả năng cung ứng thiết bị sản phẩm, làm căn cứ để sẵn sàng đáp ứng, hợp tác với các đơn vị tổng thầu trong nước và quốc tế tham gia vào dự án trước thời điểm khởi công (năm 2027).
“Thông qua tìm hiểu năng lực của các DN công nghiệp hỗ trợ, các Bộ, ngành sẽ có cơ chế chính sách đặc thù về tài chính, nguồn vốn cũng như công nghệ để “đặt hàng” và xây dựng “bộ tiêu chí” cho DN công nghiệp hỗ trợ trong nước có thể tham gia đầu tư, cung ứng sản phẩm cụ thể”, ông Nguyễn Vân bày tỏ.
Các doanh nghiệp trong nước vẫn còn khoảng cách lớn so với các doanh nghiệp FDI
Mặc dù có những bước tiến đáng kể trong việc phát triển số lượng và chất lượng doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, các doanh nghiệp trong nước vẫn còn khoảng cách lớn so với các doanh nghiệp FDI về trình độ công nghệ.
Theo chia sẻ của TS. Chử Đức Hoàng (Quỹ Đổi mới công nghệ Quốc gia), ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đang đối mặt với những thách thức nan giải trong quá trình hội nhập. Mặc dù có khoảng 1.600 doanh nghiệp, chủ yếu là quy mô vừa và nhỏ, tập trung ở các khu vực kinh tế trọng điểm, thế nhưng tỷ lệ nội địa hóa vẫn còn quá thấp so với các nước trong khu vực như Thái Lan và Malaysia. Đặc biệt đáng lo ngại là việc ứng dụng công nghệ 4.0 còn rất hạn chế, chỉ khoảng dưới 15% doanh nghiệp đã bắt đầu chuyển đổi số. Điều này đặt ra câu hỏi lớn về khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam trong tương lai, khi mà cuộc CMCN 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ.
Các chuyên gia nhận định, để giữ vững vị thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế, doanh nghiệp cần không ngừng đổi mới và nâng cao năng lực sản xuất. Việc áp dụng các giải pháp linh hoạt trong quản lý, công nghệ và mô hình kinh doanh, kết hợp với việc tận dụng tiềm năng của IoT và AI, sẽ giúp doanh nghiệp đáp ứng hiệu quả các yêu cầu khắt khe của khách hàng, nâng cao năng suất và hiệu quả sản xuất.
Để tạo lực đẩy cho công nghiệp phụ trợ trong nước, theo ông Lê Khắc Bảo, Phó trưởng Phòng Quản lý công nghiệp, Sở Công Thương TP. Hải Phòng, cần một số cơ chế ràng buộc đối với các DN, nhà đầu tư khi đầu tư dự án vào Việt Nam. Theo ông Bảo, đối với các dự án đầu tư nước ngoài đã và đang hoạt động tại Việt Nam, cơ quan cấp phép, quản lý cần có yêu cầu về chuyển giao công nghệ, hoặc tạo điều kiện cho các DN công nghiệp hỗ trợ có thể tham gia vào 1 chuỗi nào đó ở trong quy trình sản xuất, để từ đó thúc đẩy phát triển các DN công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam.
“Trong quá trình quy hoạch công nghiệp, các địa phương có những định hướng về phát triển khu, cụm công nghiệp chuyên ngành, các cụm liên kết ngành hoặc cụm công nghiệp công nghiệp hỗ trợ. Do đó trong các quy định của Bộ Công Thương đang tham mưu ban hành, có thể bổ sung một số cơ chế chính sách ưu tiên cho các cụm liên kết ngành. Đồng thời có thêm một số chính sách về việc đào tạo, thu hút và trọng dụng nguồn nhân lực để phát triển công nghiệp hỗ trợ”, ông Bảo đề xuất.
Theo bà Lê Nguyễn Thiên Nga - Viện trưởng Viện Quản trị Chính sách và Chiến lược phát triển chia sẻ, việc xây dựng một hệ sinh thái công nghệ thống nhất là điều cần thiết để thúc đẩy ứng dụng AI và IoT tại Việt Nam. Bà cho rằng, các doanh nghiệp cần chủ động đặt hàng các giải pháp công nghệ, kết nối các khối công nghiệp hỗ trợ với các ngành công nghiệp chủ lực, và phối hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý nhà nước để xây dựng một mô hình công nghệ tiêu chuẩn. Điều này sẽ giúp Việt Nam tận dụng tối đa các lợi thế từ cuộc CMCN 4.0./.