Hội thảo "Phát triển kinh tế số trong kỷ nguyên mới" sáng 25/11Kinh tế số đang ngày càng trở thành một động lực quan trọng, đóng vai trò then chốt trong việc định hình lực lượng sản xuất và phương thức tăng trưởng mới, tạo điều kiện cho nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới nắm bắt cơ hội và vượt qua thách thức trong thời đại số.
Nằm ở trung tâm của Đông Nam Á, với nhiều tiềm năng tăng trưởng kinh tế số, Việt Nam được đánh giá có tốc độ phát triển kinh tế số cao trong khu vực. Có thể nói, Việt Nam có cơ hội “bắt kịp” và thực tế đang “đi cùng” thế giới trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Kinh tế số Việt Nam đã đạt được những bước tiến trong thời gian gần đây với mục tiêu nâng giá trị gia tăng của nền kinh tế số so với GDP đạt 30% vào năm 2030.
Để thúc đẩy phát triển nền kinh tế số quốc gia, bốn nghị quyết chiến lược đột phá mới (Nghị Quyết 57, Nghị Quyết 68, Nghị Quyết 59, Nghị Quyết 66…) đã được ban hành. “Bộ tứ trụ cột” sẽ tập trung vào các chính sách đột phá về khoa học công nghệ, hội nhập quốc tế, cải cách hệ thống pháp luật, phát triển doanh nghiệp tư nhân sẽ mở ra không gian mới cho cộng đồng doanh nghiệp và thị trường phát triển mạnh mẽ.
Đây cũng là những trụ cột thể chế nền tảng, tạo động lực mạnh mẽ đưa đất nước ta tiến lên trong kỷ nguyên mới, hiện thực hóa tầm nhìn Việt Nam phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.
Ngoài ra, Việt Nam đã ban hành Chiến lược AI lần đầu tiên là năm 2021. Dự kiến, cuối năm nay, sẽ có bản cập nhật Chiến lược AI và Luật AI, tạo khung pháp lý để đưa AI trở thành hạ tầng trí tuệ của đất nước, phục vụ nhân dân, phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Kết hợp 5G và AI là xu hướng tất yếu
Phát biểu tại hội thảo "Phát triển kinh tế số trong kỷ nguyên mới" sáng 25/11, ông Phạm Văn Hoành, Tổng Biên tập Báo Tài chính - Đầu tư cho biết, 2025 là năm bản lề đánh dấu bước ngoặt quan trọng cho nền kinh tế số quốc gia.
Theo ông Hoành, trong chiến lược phát triển, Việt Nam lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực trung tâm để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình và trở thành quốc gia phát triển, có thu nhập cao.
“Việt Nam đang bước vào một giai đoạn phát triển mới, sự kết hợp giữa trí tuệ nhân tạo (AI) và mạng 5G đang mở ra một kỷ nguyên mới cho nền kinh tế số tại Việt Nam. Đây là kỷ nguyên mà tri thức, đổi mới sáng tạo và công nghệ là nguồn lực sản xuất quan trọng nhất”, ông Hoành nói.
Ông cho biết thêm, sự hội tụ giữa 5G và AI đang trở thành xu hướng toàn cầu. Đó chính là hạ tầng cho đổi mới sáng tạo, thúc đẩy các lĩnh vực như sản xuất thông minh, y tế, giáo dục, tài chính - ngân hàng, nông nghiệp công nghệ cao và logistics…, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế số.
Bà Rita Mokbel, Chủ tịch Ericsson VietnamĐồng quan điểm, bà Rita Mokbel, Chủ tịch Ericsson Vietnam cho rằng trong một thập kỷ qua, Việt Nam đã đặt nền móng cho nền kinh tế số thông qua hạ tầng kết nối, dịch vụ công nghệ thông tin và sớm ứng dụng công nghệ số. Hiện nay, Việt Nam đang bước vào một giai đoạn đầy tham vọng hơn, được dẫn dắt bởi đổi mới sáng tạo với động lực từ 5G, AI và điện toán đám mây.
Theo Chủ tịch Ericsson Vietnam, việc thương mại hóa 5G tại Việt Nam gần đây đã hiện thực hóa tầm nhìn của Chính phủ về việc tận dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo để thúc đẩy chuyển đổi số trong doanh nghiệp, tăng tốc triển khai Công nghiệp 4.0 trên phạm vi toàn quốc. 5G được kỳ vọng sẽ tạo nên làn sóng phát triển kinh tế - xã hội toàn diện và bền vững tiếp theo cho Việt Nam.
“5G chính là là xương sống của quá trình số hóa nền kinh tế, đồng thời là động lực thúc đẩy tăng trưởng toàn diện. Chuyển đổi số gần như trở thành “giải pháp vàng” để giải quyết những thách thức toàn cầu, giúp các quốc gia và doanh nghiệp khai phá tiềm năng tăng trưởng, đồng thời mang lại cho người dân nhiều cơ hội học tập, làm việc và kết nối xã hội”, bà Rita Mokbel nói và cho biết thêm theo nghiên cứu của Ericsson, cứ mỗi 10% gia tăng trong tỷ lệ sử dụng băng rộng di động có thể giúp GDP tăng thêm tới 0,8%.
Để phát triển kinh tế số một cách hiệu quả, bà Mokbel cho rằng Việt Nam cần đồng thời tập trung vào ba lĩnh vực: nâng cấp hạ tầng mạng cũ, mở rộng mạng cáp quang, và triển khai 5G. Ba yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ, bổ trợ lẫn nhau, tạo nên một hệ sinh thái số vững mạnh. Một chiến lược đa hướng, với thứ tự ưu tiên rõ ràng, chính là điều kiện tiên quyết để Việt Nam đạt được các mục tiêu kinh tế số vào năm 2030.
Khoảng trống nguồn nhân lực
Cùng với việc đầu tư phát triển, hoàn thiện hạ tầng, các chuyên gia đánh giá trong quá trình chuyển mình sang một nền kinh tế số và kinh tế dựa trên công nghệ, Việt Nam cần phải giải quyết được vấn đề về khoảng trống nhân lực xuất hiện ở chính khu vực giao thoa giữa kinh doanh và công nghệ.
TS. Đồng Mạnh Cường, Trưởng Khoa Kinh doanh Trường Đại học Anh Quốc Việt Nam nhận định Việt Nam không chỉ thiếu kỹ sư công nghệ hay chuyên gia quản trị, mà đang thiếu những con người thực sự hiểu cả hai thế giới và có khả năng kết nối chúng để tạo ra giá trị kinh tế mới.
Trong lĩnh vực ra quyết định dựa trên dữ liệu và AI, nhiều lao động trẻ biết sử dụng công cụ nhưng còn thiếu tư duy phân tích và khả năng thiết kế các chiến lược dựa trên dữ liệu. Do đó, điều Việt Nam cần không chỉ là những người biết “dùng AI”, mà là những người biết “ứng dụng AI trong mô hình kinh doanh”, biết đặt câu hỏi đúng và hiểu tác động của AI lên chuỗi giá trị của doanh nghiệp.
TS. Đồng Mạnh Cường, Trưởng Khoa Kinh doanh Trường Đại học Anh Quốc Việt NamỞ khía cạnh quản trị dữ liệu, ông Cường cho biết tình trạng thiếu nhân lực có chuyên môn về kiến trúc dữ liệu, bảo mật, tuân thủ và phân tích nâng cao khiến nhiều doanh nghiệp vẫn loay hoay giữa việc có rất nhiều dữ liệu nhưng lại không thể biến nó thành lợi thế cạnh tranh.
“Khoảng trống lớn nằm ở những vị trí kết nối - những người có thể dịch ngôn ngữ kỹ thuật của đội IT sang ngôn ngữ chiến lược của đội kinh doanh để giúp doanh nghiệp ra quyết định nhanh hơn và chính xác hơn”, ông Cường nói.
Ngoài ra, theo ông, Việt Nam hiện cũng thiếu nghiêm trọng những nhà quản lý sản phẩm số và nhà lãnh đạo chuyển đổi số có khả năng dẫn dắt toàn bộ vòng đời của một sản phẩm từ ý tưởng đến phát triển, thử nghiệm, tối ưu và mở rộng. Nhiều doanh nghiệp trong các lĩnh vực fintech, ngân hàng số, thương mại điện tử hay logistics vẫn buộc phải giao nhiệm vụ chuyển đổi số cho những nhà quản lý truyền thống, trong khi năng lực cần thiết lại nằm ở tư duy agile, khả năng đọc hiểu hành vi người dùng và năng lực kết hợp nhiều loại dữ liệu khác nhau.
“Khi các nền tảng công nghệ mới như blockchain, 5G, IoT và các hệ thống thanh toán số phát triển nhanh, khoảng thiếu hụt nhân lực ‘lai’ càng rõ rệt. Đây là những người vừa hiểu công nghệ, vừa hiểu mô hình kinh doanh, vừa nắm được yêu cầu pháp lý và tiêu chuẩn an toàn. Đây cũng là nhóm nhân lực có thể vận hành mô hình tài chính dựa trên blockchain, tối ưu chuỗi cung ứng dựa trên dữ liệu thời gian thực từ 5G và IoT, hay phát triển dịch vụ fintech mới phù hợp với khung pháp lý”, ông nhấn mạnh.
Ông Cường khẳng định thách thức lớn nhất của Việt Nam hiện nay không phải là thiếu nhân lực nói chung, mà là thiếu đúng những con người nằm ở điểm giao thoa giữa kinh doanh và công nghệ, những người có khả năng biến công nghệ thành năng suất, hiệu quả và giá trị kinh tế thực cho doanh nghiệp và cho nền kinh tế số quốc gia. Do đó, Việt Nam cần có những chính sách, giải pháp để thúc đẩy đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu này.