Cơ hội để doanh nghiệp sữa Việt mở rộng thị phần tại Singapore

Singapore nhập khẩu trên 90% nhu cầu sữa tiêu dùng, tạo dư địa cho các nhà cung ứng quốc tế, trong đó có Việt Nam.
10-22-10-dsc01463-1752079388.jpg Thời tiết ở Singapore không lý tưởng để nuôi bò sữa. (Ảnh minh họa)

Theo Thương vụ Việt Nam tại Singapore, diện tích đất nông nghiệp của Singapore chỉ chiếm 1% diện tích đất liền của quốc gia và phần lớn được ưu tiên cho sản xuất rau, cá và trứng do các mặt hàng có thể phát triển theo hướng nông nghiệp đô thị (urban agriculture) hoặc công nghệ cao.

Bên cạnh đó, Singapore không đa dạng về khí hậu, biên độ giao động nhiệt thấp, nhiều mưa, tiết trời nóng ẩm quanh năm nên không lý tưởng để nuôi bò sữa vốn thích hợp với khí hậu ôn đới mát mẻ, khô ráo.

Vì những lý do trên, việc phát triển ngành sữa ở Singapore được cho là tốn kém chi phí, sản lượng thấp và không đem lại hiệu quả kinh tế. Trên thực tế, Singapore nhập khẩu trên 90% lượng thực phẩm tiêu thụ nội địa nói chung cũng như sữa và sản phẩm sữa nói riêng.

Theo kết quả tính toán dựa trên nguồn số liệu thương mại của UNComtrade có thể thấy trong giai đoạn 2019-2023, Singapore nhập khẩu trung bình 300 nghìn tấn sữa và sản phẩm sữa mỗi năm (tương đương khoảng 900 triệu USD/năm về giá trị), trong đó lượng tiêu thụ nội địa ước đạt khoảng 245 nghìn tấn/năm (tương đương khoảng 670 triệu USD/năm), còn lại là tái xuất tới các thị trường khác.

Trong giai đoạn 2019-2023, Singapore nhập khẩu trung bình khoảng 2,5 triệu USD/năm giá trị (tương đương khoảng 344 tần/năm) sữa và các sản phẩm sữa từ Việt Nam. Ở chiều ngược lại, Singapore cũng xuất khẩu sữa và các sản phẩm sữa sang Việt Nam với giá trị trung bình khoảng 7,4 triệu USD/năm (tương đương khoảng 2,1 nghìn tấn).

tong-quan-thi-truong-sua-1752079388.jpg Trong giai đoạn 2019-2023, Singapore nhập khẩu trung bình khoảng 2,5 triệu USD/năm giá trị (tương đương khoảng 344 tần/năm) sữa và các sản phẩm sữa từ Việt Nam. (Ảnh minh họa)

Tuy vậy, nhìn chung thương mại song phương về sữa và sản phẩm sữa giữa Singapore và Việt Nam chưa thực sự cho thấy sự ổn định. Trong khi xuất khẩu của Singapore tới Việt Nam có xu hướng giảm dần trong cả giá trị và khối lượng thì nhập khẩu từ Việt Nam đang tạm duy trì được về giá trị nhưng cũng đang giảm dần về khối lượng.

Về chủng loại, trong giai đoạn 2019-2023, nhập khẩu của Singapore đối với sữa và sản phẩm sữa từ Việt Nam nổi lên Nhóm 040630 (Phô mai đã chế biến trừ Phô mai dạng bào/dạng bột) đạt giá trị vượt trội, trên 2,3 triệu USD/năm. Ngoài nhóm này, hiện chỉ có 03 nhóm khác có kim ngạch trên 10 nghìn USD và đáng kể là Nhóm 040490 (Các sản phẩm khác có thành phần sữa tự nhiên n.e.s.), Nhóm 040120 (Sữa và kem sữa không cô đặc, không thêm đường, không thêm chất tạo ngọt, có hàm lượng chất béo sữa trên 1% đến tối đa 6%) và Nhóm 040299 (Sữa và kem sữa ở dạng khác, có thêm chất tạo ngọt).

Do vậy, Nhóm 040630 có thể được xem là nhóm có tiềm năng nhất để phát triển, trên cơ sở nhóm này cũng thuộc Top 4 các sản phẩm sữa xuất khẩu của Singapore ra thế giới và hiện Việt Nam đang là nhà cung ứng Nhóm 040630 đứng thứ 7 cho thị trường Singapore (chỉ sau 06 đối tác lớn là Australia, New Zealand, Pháp, Italy, Hoa Kỳ, Anh).

Số liệu cũng cho thấy Nhóm 040221 (Sữa và kem sữa ở dạng rắn, không thêm chất tạo ngọt, có hàm lượng chất béo ữa trên 1,5%) là nhóm mà Singapore trao đổi chính với thế giới, thì gần như không nhập khẩu nhóm này từ Việt Nam, mà lại xuất nhóm này sang Việt Nam với giá trị năm 2023 đạt trên 2,3 triệu USD, đã chiếm đến hơn một nửa tổng giá trị xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa của Singapore sang Việt Nam trong năm 2023 (4,2 triệu USD).

Thương vụ Việt Nam nhấn mạnh, Singapore là một thị trường có tiêu chuẩn rất cao và quy định quản lý chất lượng mặt hàng sữa và sản phẩm sữa rất rõ ràng, chặt chẽ. Thị trường này cũng có sự hiện diện của nhiều tên tuổi lớn, lâu năm từ các quốc gia sản xuất sữa mạnh như Australia, New Zealand, Hoa Kỳ, Hà Lan.

Do đó, để tìm kiếm cơ hội bền vững tại thị trường khó tính này, các doanh nghiệp Việt Nam cần tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu về thành phần và ghi nhãn sản phẩm. Đồng thời, việc chú trọng đến các giấy chứng nhận quốc tế về chất lượng và an toàn thực phẩm như ISO, HACCP, Organic USDA/EU, và Halal là vô cùng cần thiết để nâng cao năng lực cạnh tranh.