Ths Phạm Phú Dũng – Viện Nghiên cứu da giày Việt Nam chia sẻ tại hội thảo.Theo số liệu của Cục Thống kê, lũy kế 9 tháng đầu năm 2025, kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam ước đạt 17,8 tỷ USD tăng 7,4% so với cùng kỳ 2024. Ngành da giày Việt Nam tận dụng hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (EVFTA, UKVFTA, VKFTA, ASEAN-Trung Quốc) để đẩy mạnh xuất khẩu
Tại Hội thảo “Tăng cường năng lực phòng vệ thương mại trong lĩnh vực công nghiệp tại Việt Nam”, Ths Phạm Phú Dũng – Viện Nghiên cứu da giày Việt Nam chia sẻ, ngành da giày Việt Nam hiện đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu, chỉ sau Trung Quốc. Tuy nhiên, ngành da giày Việt Nam chịu áp lực ngày càng lớn từ các biện pháp phòng vệ thương mại (PVTM) do các thị trường nhập khẩu áp dụng nhằm bảo vệ sản xuất trong nước.
Thực tế, từ năm 2006, EU đã áp dụng biện pháp chống bán phá giá (AD) cho sản phẩm giày da Việt Nam. Thổ Nhĩ Kỳ cũng đã từng áp dụng biện pháp tự vệ đối với mặt hàng giày dép Việt Nam. Gần đây, các cơ quan thương mại Mỹ và châu Âu cũng đang tăng cường chống lẩn tránh thuế, tăng cường điều tra chống lẩn tránh đối với sản phẩm giày thể thao, túi xách qua nước thứ ba.
Cùng với đó, một số quốc gia Brazil, Mexico, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ đã điều tra hoặc cảnh báo về khả năng áp dụng phòng vệ thương mại đối với sản phẩm giày dép Việt Nam do lo ngại “chuyển hướng thương mại” từ Trung Quốc sang Việt Nam. Không chỉ dừng ở thuế, các biện pháp kỹ thuật như Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM), bộ tiêu chí ESG hay nhãn sinh thái Bắc Âu đang trở thành “rào cản xanh” mới, buộc doanh nghiệp phải chứng minh quy trình sản xuất thân thiện môi trường, giảm phát thải và minh bạch nguồn gốc.
“Nguyên nhân sâu xa đến từ mô hình sản xuất gia công (OEM) khiến giá trị gia tăng nội địa thấp và khó chứng minh nguồn gốc xuất xứ. Sự phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu, giá bán cạnh tranh thấp hơn nước nhập khẩu cũng khiến Việt Nam dễ bị cáo buộc bán phá giá. Việc dịch chuyển sản xuất từ các quốc gia bị áp thuế AD/CVD sang Việt Nam có thể dẫn đến cáo buộc Việt Nam là nơi lẩn tránh thuế nếu quy trình sản xuất không đáp ứng quy tắc xuất xứ. Cùng với đó, sự tăng trưởng đột biến về lượng và kim ngạch xuất khẩu vào một số thị trường trọng điểm khiến ngành sản xuất nội địa của nước nhập khẩu cho rằng mình bị thiệt hại”, ông Dũng phân tích
Hiện ngành da giày Việt Nam đang gặp phải nhiều khó khăn thách thức: xu hướng bảo hộ sản xuất trong nước đang gia tăng tại nhiều thị trường lớn (Hoa Kỳ, EU), dẫn đến việc sử dụng PVTM như một công cụ chính sách. Các biện pháp phòng vệ thương mại đang có xu hướng gắn kết với các tiêu chuẩn về môi trường, lao động, phát triển bền vững, tạo ra rào cản kép cho sản phẩm da giày Việt Nam. Cùng với đó, yêu cầu “xanh hóa” sản xuất tại các thị trường lớn EU áp dụng Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon yêu cầu sản phẩm phải đạt chuẩn môi trường, lao động và truy xuất nguồn gốc, nguyên liệu tái chế nếu không sẽ bị hạn chế nhập khẩu. “Trong khi đó, năng lực nội tại của ngành vẫn còn hạn chế: tỷ lệ nội địa hóa nguyên phụ liệu mới đạt khoảng 50%, công nghệ và năng lực nghiên cứu phát triển còn yếu, phần lớn doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ, thiếu kinh nghiệm, nhân lực chuyên trách và nguồn lực tài chính để ứng phó các vụ kiện PVTM kéo dài, tốn kém.”, ông Dũng khẳng định.
Ngành da giày Việt Nam cần chủ động tăng tỷ lệ nội địa hóa nguyên phụ liệu. (Ảnh minh họa)Để nâng cao năng lực phòng vệ thương mại cho ngành da giày Việt Nam, Ths Phạm Phú Dũng khuyến nghị doanh nghiệp cần chủ động hơn trong đa dạng hóa thị trường, tránh tăng trưởng “nóng” tại một khu vực; đầu tư đổi mới công nghệ, sản xuất xanh và tái chế vật liệu theo mô hình kinh tế tuần hoàn. Nâng cao nhận thức và năng lực phòng vệ thương mại, nâng cao năng lực pháp lý, minh bạch dữ liệu tài chính – kế toán và tuân thủ quy tắc xuất xứ là điều kiện tiên quyết để tự bảo vệ mình trong các cuộc điều tra. Về phía cơ quan quản lý và hiệp hội ngành hàng, cần xây dựng hệ thống cảnh báo sớm, xây dựng cơ sở dữ liệu về giá, chi phí và xuất xứ sản phẩm để kịp thời phản hồi khi bị điều tra. Hỗ trợ doanh nghiệp tham gia các chứng nhận theo yêu của thị trường, góp phần nâng cao hình ảnh và uy tín hàng da giày Việt Nam. Tăng cường theo dõi, cảnh báo sớm các vụ PVTM, đồng thời hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp khi có điều tra.
Đặc biệt, về dài hạn, ngành da giày cần đẩy mạnh chuyển đổi từ gia công đơn thuần hiện nay (OEM) sang mô hình ODM (Original Design Manufacturing) và OBM (Original Brand Manufacturing), tăng cường giá trị gia tăng, giảm cạnh tranh bằng giá. Nhanh chóng đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế về môi trường (sản xuất xanh) và lao động, biến các tiêu chuẩn này thành lợi thế cạnh tranh, giảm thiểu nguy cơ bị áp dụng PVTM dựa trên các yếu tố phi thương mại.
Việt Nam hiện là nơi sản xuất chủ lực cho nhiều thương hiệu quốc tế như Nike, Adidas, Puma, Saucony và Brooks...Nhờ các hiệp định thương mại tự do, ngành da giày đã tận dụng rất là tốt các ưu đãi thuế quan, giúp sản phẩm Việt Nam tăng sức cạnh tranh. Các doanh nghiệp trong ngành cũng từng bước cải thiện được chất lượng của sản phẩm, phát triển được những thương hiệu riêng của mình và đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế về môi trường, lao động.