Phát triển tre Việt Nam theo chuỗi giá trị kinh tế tuần hoàn

Ở Việt Nam, ngành sản xuất tre mang lại giá trị xuất khẩu từ 300 đến 400 triệu USD/năm. Cây tre không chỉ có giá trị về văn hóa và ứng phó với biến đổi khí hậu(BĐKH) mà còn mang ý nghĩa lớn trong phát triển kinh tế. Ngày 4/9, tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Bộ NN&PTNT) phối hợp cùng Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức hội thảo " Phát triển ngành Tre Việt nam theo chuỗi giá trị hàng hoá và định hướng mô hình kinh tế tuần hoàn”.

Tham gia hội thảo có các đơn vị thuộc Bộ NN& PTNT như: Tổng cục Lâm nghiệp, các Cục, Vụ, Viện và Trung tâm Nghiên cứu; đại diện lãnh đạo các đơn vị thuộc VCCI, đại diện chi nhánh VCCI tại Thanh Hoá, Nghệ An. Tham dự còn có sự hiện diện của các cơ quan ở Trung ương như Vụ nông nghiệp của Văn phòng chính phủ, Uỷ ban Dân tộc…; Đại diện của UBND và Sở Nông nghiệp nhiều tỉnh Trung du Miền núi phía Bắc, Tây nguyên và các hiệp hội ngành hàng, làng nghề thủ công mỹ nghệ.

Tham gia hội thảo còn có đại diện của nhiều tổ chức quốc tế tại Việt Nam như Liên minh châu Âu, Oxfam...; nhiều tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trồng và tiêu thụ tre, các báo, đài và nhiều đơn vị truyền thông.

tai-xuong-1660070647.jpg
Trần tre trong sân bay quốc tế Madrid ở Tây Ban Nha (Nguồn: SCBV)

Ngành hàng tre Việt Nam - thực trạng và tiềm năng phát triển

Tại hội thảo, đại biểu tham dự đã xác định rõ vai trò, vị trí và giá trị của cây tre Việt Nam. Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Trần Thanh Nam cho rằng, giá trị sử dụng hàng năm của cây tre chưa tính được hết, nhưng người nông dân trồng tre đang phải chịu áp lực trước nhiều cây trồng có giá trị kinh tế cao và thâm canh nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi… Để phát triển ngành hàng tre, ngay từ bây giờ doanh nghiệp cùng chính quyền các địa phương và Bộ NN&PTNT phải chung tay xây dựng những vùng quy hoạch nguyên liệu đáp ứng yêu cầu sản xuất, chế biến, xuất khẩu. Muốn hình thành chuỗi giá trị ngành hàng, ngành nông nghiệp phải cùng các doanh nghiệp và nhà đầu tư xác định được vùng nguyên liệu và liên kết sản xuất. Đây là những vấn đề mà doanh nghiệp, người sản xuất và chính quyền các địa phương phải cùng vào cuộc thì mới phát huy được giá trị của tre.

Theo Bộ NN&PTNT, tổng diện tích tre cả nước hiện có gần 1,6 triệu ha phân bố ở hầu hết các tỉnh, thành; trong đó 37/63 tỉnh có diện tích trên 10.000 ha, hàng năm khai thác từ 500 - 600 triệu cây tre với khoảng 2,5 - 3 triệu tấn sản phẩm, cho giá trị xuất khẩu từ 300 đến 400 triệu USD. Sản phẩm tre xuất khẩu chủ yếu sang thị trường EU với 25%; các thị trường còn lại như Hàn Quốc, Nhật Bản cũng dao động trong khoảng 15%...

Với xu hướng sản xuất xanh, tiêu dùng bền vững, các chuyên gia nhận định, sản phẩm từ tre ngày càng được thị trường nước ngoài ưa chuộng. Điều phối viên dự án Phát triển bền vững và toàn diện chuỗi giá trị tre ở Việt Nam Nguyễn Thị Thanh Huyền cho biết, với quy mô thị trường toàn cầu khoảng 83 tỷ USD vào năm 2028 và tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trên 5,7%, tre sẽ là ngành hàng tiềm năng to lớn cho nông nghiệp Việt Nam.

Từ đặc thù sinh trưởng, cây tre là loài thực vật phát triển nhanh, cung cấp nguồn tài nguyên bền vững và có thể tái chế. Sản phẩm từ tre nhẹ, bền có thể thay thế gỗ tự nhiên và các hợp chất hóa học; tre đã trở thành loại vật liệu có khả năng chống chịu động đất, ngăn chặn xói mòn đất và phục hồi đất bị thoái hóa. Với khả năng hấp thụ carbon tốt, tre góp phần tích cực vào giảm tác động biến đổi khí hậu. Cây tre cũng đóng vai trò quan trọng trong sinh kế của nông dân ở các địa phương, góp phần xóa đói giảm nghèo. Tại Việt Nam, tre đã trở thành nguồn nguyên liệu phục vụ cho trên 600 làng nghề mây tre đan. Cây tre đóng vai trò to lớn trong đời sống kinh tế - xã hội, góp phần phát triển du lịch sinh thái và cảnh quan kiến trúc, lưu giữ và bảo tồn các giá trị truyền thống của dân tộc; đồng thời còn tạo sinh kế, việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân ở vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc và lao động trong các làng nghề.

tai-xuong-1660070647.png
Sản phẩm thủ công từ nguyên liệu tre (Ảnh minh hoạ)

Theo báo cáo của Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, tài nguyên tre Việt Nam rất phong phú và đa dạng với 30 chi và 216 loài. Một số loài có giá trị kinh tế cao như: Luồng, lùng, trúc sào, lồ ô, bương, tầm vông, tre gai.

Cây tre có vai trò quan trọng đối với sinh kế gia đình và kinh tế quốc dân; giúp nhân loại sử dụng nguyên liệu xanh thay gỗ tự nhiên và hợp chất hoá học; tre cũng góp phần tích cực vào mở mang phát triển du kịch sinh thái và cảnh quan kiến trúc. Trong điều kiện phát triển tự nhiên, Phó Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn Việt Nam Võ Hoàng Yến đã lưu ý, giống tre ở nước ta đang có dấu hiệu suy thoái; nhiều vùng khai thác không tái tạo nên tre kém phát triển. Do trình độ khai thác thấp, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, lại thiếu chính sách hỗ trợ phát triển và sản xuất kinh doanh nên sản phẩm thiếu đa dạng và bền vững. Chất lượng chưa cao và thiếu gắn kết giữa các tác nhân trong chuỗi sản phẩm là nguyên nhân yếu kém trong xúc tiến thương mại, quảng bá và giới thiệu sản phẩm. Ngoài ra, thiếu thông tin, chưa có tiêu chuẩn và hành lang pháp lý trong hoạt động kinh tế đã dẫn đến nhiều rào cản kinh doanh và ngành hàng chưa phát huy được hết tiềm năng.

Từ những hạn chế của ngành, rất cần bảo tồn giá trị văn hóa và phát huy giá trị kinh tế của những sản phẩm chế biến từ tre. Đồng thời với đa dạng hoá sản phẩm, dùng tre làm vật liệu thay thế gỗ và nhiều hợp chất hóa học đang là xu thế thời đại; việc xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung để cấp chứng chỉ xuất khẩu là việc làm cần thiết trong quy hoạch ngành.

tre-nguyen-lieu-1660005589-1660070647.jpg
Một rừng tre nguyên liệu. Ảnh minh họa.

Định hướng phát triển ngành tre Việt Nam

Từ những vấn đề đặt ra, để tổ chức sản xuất hiệu quả cần nghiên cứu cải tạo giống tre, áp dụng phương pháp trồng, chế biến mới vào sản xuất; xây dựng các chuỗi liên kết giữa người dân, hợp tác xã với doanh nghiệp; vùng nguyên liệu với các làng nghề mây tre đan.

Tại hội thảo, Bộ NN&PTNT cho biết sẽ cùng với các bộ, ngành sớm thúc đẩy hình thành Hiệp hội Tre Việt Nam. Coi đây là một trong những cơ sở tiền đề gắn kết ngành theo chuỗi giá trị cũng như phát triển công nghiệp chế biến tre trong tương lai.

Theo Phó cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác Võ Hoàng Yến, hiện nay, tre có ít giống tốt và đang có dấu hiệu suy thoái; diện tích đang bị thu hẹp, trình độ canh tác thấp; quy mô sản xuất nhỏ lẻ; hạ tầng phục vụ sản xuất như đường, điện… chưa được đầu tư. Ngoài ra, công nghệ chế biến còn lạc hậu so với thế giới, thiếu các chính sách hỗ trợ phát triển và sản xuất kinh doanh, nguồn vốn còn hạn chế. Những hạn chế này dẫn đến sản phẩm lưu thông, tiêu thụ trên thị trường nội địa là chủ yếu; thiếu sự đa dạng và chưa quan tâm đến quản lý chất lượng. Nhìn chung, thị trường tre Việt Nam thiếu sự gắn kết giữa các tác nhân trong chuỗi sản phẩm cả về chiều dọc và chiều ngang; công tác xúc tiến thương mại, quảng bá, giới thiệu sản phẩm còn yếu và thiếu thông tin thị trường.

Phân tích tổng quan thương mại cây tre trên thị trường thế giới, Điều phối viên dự án Phát triển toàn diện chuỗi giá trị tre ở Việt Nam, Nguyễn Thị Thanh Huyền cho biết, quy mô thị trường tre toàn cầu dự kiến đạt 82,90 tỷ USD với tốc độ tăng trưởng bình quân 5,7%/năm trong giai đoạn 2021 - 2028, trong xu hướng công nghiệp có tỷ trọng lớn (chiếm trên 35,0% từ năm 2020). Do xu hướng của thiết kế nội thất bền vững trong các tòa nhà xanh hoặc trung tính đối với môi trường, ứng dụng nội thất tre sẽ đạt tốc độ tăng trưởng 5,0%/năm. Theo đó, châu Á - Thái Bình Dương sẽ nổi lên giữ vai trò chủ đạo thị trường với tỷ trọng doanh thu hơn 75%. Trong các sản phẩm của tre, măng là phân khúc thực phẩm quan trọng đối với sức khỏe con người. Măng chứa hàm lượng cao các axit amin, protein, vitamin A, vitamin B6, vitamin E, niacin và thiamine… vào năm 2020.

Tương lai đối với ngành tre Việt Nam khá lớn; nhưng hiện nay vùng nguyên liệu vẫn chưa tập trung. Để gia tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, chất lượng của tre Việt Nam phải nâng lên bằng hoặc cao hơn Trung Quốc, đây là thách thức lớn đặt ra. Theo các nhà phân tích. không nên cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại mà phải phát triển các sản phẩm mới với thiết kế độc đáo hoặc có công dụng mới và tập trung vào sản phẩm mà Trung Quốc không sản xuất được. Theo đó, cần xây dựng kế hoạch tiếp thị ngành vững chắc cho cả thị trường trong và ngoài nước; hợp tác với các tổ chức và công ty châu Âu để thực hiện các dự án phát triển ngành tre Việt Nam.

Trước thực trạng diễn ra, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Trần Thanh Nam cho rằng, ngay từ bây giờ doanh nghiệp cùng chính quyền địa phương và Bộ NN&PTNT phải xây dựng được những vùng nguyên liệu lớn đáp ứng yêu cầu sản xuất, chế biến, xuất khẩu. Ông nhấn mạnh “Để hình thành chuỗi giá trị cần kêu gọi doanh nghiệp đầu tư, phải xác định được vùng nguyên liệu và sự liên kết. Đây là những vấn đề mà doanh nghiệp, người sản xuất và chính quyền các địa phương phải cùng vào cuộc thì mới phát huy được giá trị cây tre”.

Cũng theo ông, nhiều nơi chưa xác định hết được vai trò, vị trí đích thực của cây tre. Sự gắn kết giữa doanh nghiệp với người trồng và doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu và tiêu thụ trong nước còn rời rạc, đặc biệt là xây dựng các vùng nguyên liệu lớn phục vụ cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Cùng với xây dựng lại vùng nguyên liệu tre tập trung, hiện nay Bộ NN&PTNT đang đề xuất thành lập Hiệp hội Tre luồng Việt Nam. Đây sẽ là tiền đề và là cơ sở đầu tiên nhằm gắn kết ngành tre Việt trong giai đoạn mới. Từ định hướng bảo tồn giá trị văn hoá của cây tre Việt và phát huy các giá trị kinh tế của những sản phẩm, nhằm đa dạng hoá và sử dụng tre làm vật liệu thay thế gỗ và các hợp chất hoá học, Bộ NN&PTNT đã chủ trương xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung được cấp chứng chỉ hướng tới xuất khẩu.

Tại hội thảo, Cục kinh tế hợp tác và Phát triển Nông thôn đã xác định định hướng phát triển của ngành đồng thời cũng vạch ra một số giải pháp chủ yếu trong tổ chức sản xuất, thị trường tiêu thụ và cơ chế chính sách cần làm. Theo đó báo cáo của Cục đã nhấn mạnh:

Về tổ chức sản xuất, phải nghiên cứu cải tạo giống tre và vận dụng phương pháp trồng chế biến mới vào sản xuất; thành lập các hợp tác xã (HTX) và tổ hợp tác trồng tre. Trên cơ sở này, xây dựng những chuỗi liên kết giữa người dân, HTX với các doanh nghiệp trồng, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Theo đó, cần tổ chức xây dựng quy hoạch vùng sản xuất nguyên liệu tập trung; đầu tư vào xây dựng hạ tầng phục vụ sản xuất như điện, đường…; tạo liên kết vùng nguyên liệu với các làng nghề mây tre đan và các thị trường tiêu thụ.

Đối với thị trường tiêu thụ, cần đa dạng hoá sản phẩm thông qua thiết kế mẫu mã theo thị hiếu của khách hàng; tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại, đàm phán mở cửa thị trường, tổ chức tiếp thị và quảng bá cho sản phẩm tre, nhất là những sản phẩm có khả năng thay thế gỗ và những vật liệu khác.

Về cơ chế chính sách, đây là những đòn bẩy quan trọng để phát triển ngành, việc xây dựng và hoàn thiện chính sách cần được quan tâm nghiên cứu và làm dứt điểm trong chủ trương hỗ trợ về đất đai, tín dụng, khoa học công nghệ và thị trường. Ngoài ra, rất cần quan tâm xây dựng chính sách liên kết giữa người dân.HTX và tổ hợp tác với doanh nghiệp.

Vĩ thanh

Trong thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam, Nghị định 08/2022/NĐ-CP của Chính phủ quy định cấm nhập khẩu và sản xuất vật liệu nhựa dùng một lần bắt đầu từ năm 2026. Sự sẵn có của những sản phẩm làm từ vật liệu tre có thể là sự lựa chọn thay thế hữu ích cho sản phẩm nhựa dùng một lần, Từ đây, vật phẩm làm từ tre có nhiều triển vọng tương lai, nó sẽ nâng tầm cây tre trong đời sống xã hội, Với nhiều khía cạnh khác nhau, hy vọng chuỗi giá trị sản phẩm tre Việt sẽ mở ra rộng lớn để ngành kinh tế tre ngày càng phát triển đi lên.