Cần xây dựng kế hoạch chi tiết vận hành “kịch bản” phát triển kinh tế biển xanh

Nghị quyết 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển đặt mục tiêu kinh tế biển dự kiến sẽ đóng góp tới 10% GDP vào năm 2030. Để thực hiện mục tiêu này, Việt Nam cần hướng tới tới xây dựng nền kinh tế biển xanh.

Một số chuyên gia cho rằng, tương tác giữa các ngành, lĩnh vực kinh tế nhìn chung là tích cực hoặc khá tích cực, cho thấy vẫn còn dư địa cho phát triển kinh tế biển. Tuy nhiên, vẫn còn các ngành kinh tế có dính líu tiêu cực với môi trường và hệ sinh thái, cho thấy việc mở rộng hơn nữa có thể dẫn đến suy thoái môi trường.  Một kịch bản xanh được xây dựng đã chứng minh rằng giá trị hệ sinh thái và đôi khi là diện tích của các sinh cảnh chính (rừng ngập mặn, cỏ biển, rạn san hô và đầm phá) có thể được tăng lên. Vì vậy, mở rộng kinh tế biển cần phải đi kèm với việc chú trọng duy trì hoặc nâng cao chất lượng môi trường.

Trong các nghiên cứu cũng cho thấy phát triển theo hướng “xanh lam” sẽ giúp gia tăng đáng kể mức thu nhập bình quân đầu người GNI/đầu người. Ở thời điểm năm 2025, theo kịch bản cơ sở GNI/đầu người là 147 triệu VNĐ, trong khi theo kịch bản tăng trưởng xanh là 230 triệu VNĐ. Tương tự, năm 2030, theo kịch bản cơ sở GNI/đầu người là 163 triệu VNĐ, trong khi theo kịch bản tăng trưởng xanh là 290 triệu VNĐ.

00008-1657161134.jpg TP. Hạ Long (Quang Ninh) tận dụng lợi thế đẩy mạnh phát triển kinh tế biển.

Các chuyên gia đã đưa ra khuyến cáo thực hiện kinh tế biển xanh ở 5 lĩnh vực: Thủy sản và nuôi trồng thủy sản, Dầu khí, Năng lượng tái tạo, Du lịch, Vận tải biển. Với ngành thủy sản và nuôi trồng thủy sản, cần giảm sản lượng đánh bắt thủy sản xuống mức sản lượng bền vững tối đa (~ 2,7 triệu tấn mỗi năm) thông qua việc giảm sản lượng đánh bắt 2% mỗi năm, bao gồm giảm 5% mã lực tàu ven bờ mỗi năm; duy trì diện tích nuôi trồng thủy sản; và cải tiến quản lý để dẫn đến năng suất an toàn tăng 3,5% mỗi năm.

Ngành dầu khí sẽ thúc đẩy tiết kiệm năng lượng trong các hoạt động sản xuất dầu khí; tăng cường bảo vệ môi trường; và tăng cường tham gia vào lĩnh vực sản xuất năng lượng tái tạo trên biển mới nổi như điện gió ven bờ, điện gió ngoài khơi.

Để phát triển năng lượng tái tạo biển, Việt Nam cần mở rộng nhanh chóng các nguồn năng lượng tái tạo biển đạt 10.000 MW lắp đặt vào năm 2030, bao gồm ~4.500 MW gió gần bờ (chủ yếu là đồng bằng sông Cửu Long) và 5.000 MW gió ngoài khơi (chủ yếu là khu vực Nam Trung Bộ).

Đối với ngành du lịch, các chuyên gia khuyến cáo cần thúc đẩy tăng trưởng khách quốc tế 8 - 10%/năm và khách nội địa 5 - 6%/năm đến năm 2030; đạt 1,6 triệu giường khách du lịch với tỷ lệ lấp đầy 65% vào năm 2030; đưa các tác động của biến đổi khí hậu, bao gồm cả nước biển dâng, vào quy hoạch du lịch. Trong lĩnh vực vận tải hàng hải, để đạt kịch bản kinh tế xanh làm, cần tăng vận tải biển lên 20,6% hoặc thị phần vào năm 2030; nâng khối lượng hàng hóa vận chuyển lên 787 triệu tấn; và mở rộng vận tải nội địa lên 289 triệu tấn.

Để đạt được mục tiêu này, các chuyên gia khuyến nghị Việt Nam cần lập kế hoạch chi tiết hơn để vận hành kịch bản xanh được nêu trong phân tích này thông qua việc áp dụng các công cụ như Quy hoạch không gian biển. Đảm bảo rằng tăng trưởng kinh tế biển không phải đánh đổi chất lượng môi trường là điều cơ bản để đảm bảo một nền kinh tế xanh ở Việt Nam. Tổ chức xây dựng hệ thống thông tin kinh tế biển một cách có hệ thống và thống nhất để phục vụ nghiên cứu chính sách kinh tế biển xanh trong giai đoạn tới. Tăng cường đào tạo nhân lực cho các hoạt động kinh tế biển, đặc biệt là hình thành đội ngũ chuyên gia nghiên cứu chuyên sâu về các vấn đề phát triển kinh tế biển xanh. Đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về biển.